We are a public bathroom
Một phim ngắn của Đoàn Tuấn Đức
Author: Đoàn Đức Tuấn
Published on: 2/6/2017 3:18:51 PM



Về nỗi thống khổ, tình yêu và cơn tỉnh thức linh hồn

I.
Tại Harlem, thành phố New York, buổi sáng ngày 16 tháng 3, năm 2014, tôi lại đi con đường quen thuộc từ trạm tàu điện đường 137 đến trường đại học của tôi. Ở trước khuôn viên trường, nơi tôi hay dừng lại, là một sân bóng đá rộng và trống. Đó là một ngày mùa xuân sớm, nhiệt độ vừa trên 0 độ, đủ để tuyết tan. Tôi đứng nhìn: Ở giữa sân tuyết rộng, những đám cỏ dần dần ló mặt từ những nơi được mặt trời soi chiếu.  


Tại vùng đất này, giai đoạn mùa xuân sớm diễn ra rất ngắn ngủi, chỉ hai ngày trước khi tuyết tan hoàn toàn và phong cảnh phủ xanh. Đối với tôi, sự tồn tại đồng thời của tuyết và cỏ là giai đoạn dữ dội và đẹp nhất của năm, một thời điểm duy nhất mà tôi có thể nhìn thấy cái chết và sự hồi sinh ở cạnh nhau. Một người đến từ một nước nhiệt đới không có mặt bốn mùa, cảnh tượng này dẫn tôi cảm thức mạnh mẽ đến vòng hồi chuyển của thời gian, có thể là lần đầu trong đời mình.

Đứng tại đó, tôi nghĩ đến câu chuyện một chàng trai trẻ chết trong thời gian đẹp nhất của hắn ta. Một cuốn phim ngắn về một cuộc đời thoáng chốc, một cái chết như thơ, và một sự hồi sinh như thơ.

Viết kịch bản ngay trong ngày, hai hình ảnh từ vô thức của tôi xuất hiện trở lại. Hình ảnh đầu tiên là của Thánh Francis từ Assisi, trong những bức tranh ông ta quỳ xuống nhận Dấu Thương từ trên trời. Dấu Thương là những vết thương trên cơ thể tương đồng với những vết thương chúa Jesus nhận khi bị đóng đinh. Những người hiếm hoi nhận được Dấu Thương được đồn rằng đã đạt tới một tầm cao tinh thần, bởi người nhận Dấu Thương đã khuân rỗng hắn ta để nhận lấy chúa trời trong linh hồn hắn.






Hình ảnh thứ hai là của Thánh John Rửa Tội, người bị Herod chặt đầu. Thường được vẽ là một cái đầu bị chặt để trên cái đĩa, đầu của thánh John chảy máu ròng, nhưng vẫn còn tỉnh sống. Đôi mắt của ông ta nói lên nỗi nhẫn chịu đau thương không đo được, nhưng vẫn nhìn mọi thứ với sự yên hòa và trầm lắng.






II.

Tôi nghĩ khi một con người đang yêu, gốc gác của nỗi hạnh phúc không phải đến từ sở hữu một kẻ khác. Người đang yêu tỉnh dậy, bất chợt nhìn thấy thế giới xung quanh hắn được dậy lên bởi cái đẹp: hắn thấy được vẻ đẹp của những cái lá, cái hoa; hắn yêu thương những con kiến, những hạt đất, những gì hắn nhìn thấy trước mắt hắn, những gì hắn trải qua tại hiện tại, những gì hắn nhớ lại trong quá khứ, những gì hắn tưởng tượng trong tương lai. Tất cả những lý do cho sự tồn tại của hắn được lý giải tại thời điểm hắn yêu. Hắn học cách yêu số mệnh của hắn, những cơn xui rủi của hắn, tất cả những gì là của hắn. Kẻ yêu được hồi sinh trong một thế giới khác, khi hắn yêu.

Đấy là bản chất tinh thần của tình yêu. Tình yêu chuyển hóa tự nó theo thời gian, nhưng cũng chuyển hóa linh hồn những kẻ đang yêu đến một trạng thái sống khác. Những kẻ đang yêu học cách chấp nhận và bao chứa tất cả những thứ xung quanh hắn khi hắn học cách chấp nhận tình yêu. Kẻ yêu du hành từ yêu một con người đến yêu những điều khác, hắn chợt nhìn thấy mọi thứ khác biệt đi, đến một điểm mà từ cuộc đời được tắm rửa trong ơn huệ và sự sống.

Như Plato viết ở trong cuốn ‘The Symposium’, một kẻ sẽ dịch chuyển từ tình yêu vẻ đẹp hình thể của một người cho đến tình yêu nguồn gốc vĩnh hằng của Cái Đẹp: Từ yêu một con người đẹp, đến yêu những thứ đẹp điều đẹp, đến yêu chính cái Đẹp trừu tượng. Sự yêu không khác gì một sự tiến hóa tinh thần, một cuộc phiêu lưu tìm đến cái linh hồn đang rung động bên dưới con người chúng ta và bên dưới thế giới, tìm trong chúng ta cái sự vĩnh cửu mà cũng hiện diện trong vũ trụ. Tình yêu là một trạng thái hòa hợp hiếm hoi khi một người bước vào một cuộc kết giao với thiên nhiên và vũ trụ. Như Martin Buber nói, kẻ yêu chợt nhìn ra trong đôi mắt người hắn yêu một nét của Vĩnh Hằng.  

Đó là những gì tôi cảm thấy là bề diện tinh thần của tình yêu xác thịt.






III.

Hành động quy hàng hoàn toàn trong tình yêu cũng được tìm thấy trong đức tin. Đức tin,  theo tôi, không khác tình yêu, chỉ là một hình dạng kiệt cùng, dâng hiến của tình yêu khi kẻ yêu từ bỏ cái ước vọng được yêu trở lại và không cần người hắn yêu đáp trả lại một điều gì. Hắn chỉ muốn cho đi, đầu hàng cho một người yêu luôn luôn vô hình và luôn luôn im lặng. Đó là tình yêu của thánh Francis đối với Chúa Trời.  

Trạng thái đê mê thần thánh, trong những bức tranh vẽ thánh Theresa, thánh Sebastian, thánh John Rửa Tội, Thánh Francis là một trạng thái im lặng không biểu đạt được, nhưng tính dục hóa, một trạng thái của đức tin và cũng là tình yêu. Kẻ đê mê đó đang làm tình với một Chúa Trời vô hình ở trong linh hồn của hắn, cũng giống như một kẻ trần tục đang làm tình với người tình hữu hình của hắn. Nhưng trong lúc đó, thân thể của kẻ đê mê phải chịu những nỗi đau thân xác bởi những kẻ bên ngoài đang hành xác họ. Trạng thái đê mê, trong cái hoàn tưởng thần thánh đó, được đạt tới khi linh hồn của kẻ đó bị thiêu hoàn toàn bởi tình yêu, và từ đó vượt quá sự thống khổ của da thịt. Trạng thái đó xuất hiện khi sự sung sướng và thống khổ cùng tồn tại trong cùng một lúc, nhưng bị dẫn dắt bởi sự thuần khiết của tinh thần khi nó đi lên đến một thái ngưỡng khác vượt quá thân thể, nỗi đau đớn và thời gian. Tinh thần tìm đến sự Vĩnh Hằng. Trạng thái của tinh thần đến Vĩnh Hằng đó sẽ được miêu tả như thế nào?







IV.

‘Mùa xuân sớm’ kể về một người trai trẻ để cho chúa trời đi vào linh hồn của mình bằng cách nhận những vết thương của chúa. Như thánh Francis, hắn tìm đến sự đê mê thần thánh, từ tình yêu và nỗi thống khổ đó.

Là một người thức cảm với thời khắc và sự hủy hoại của thời gian, tôi hiểu rằng xúc cảm cuồng nhiệt giữa hai con người không tồn tại vĩnh viễn. Là một người cảm thức sự cô độc của mình  trong thế giới, đã đi qua những tình yêu và mất đi tình yêu, tôi nhận thấy sự cô độc không thể được giải thoát bằng tình yêu xác thịt con người.

Sự cô độc sẽ được giải thoát không phải bởi tình yêu xác thịt, nhưng bởi một cơn tỉnh thức đến một trạng thái tinh thần được xúc tác bởi tình yêu. Trong cơn tỉnh thức đó, chúng ta không sở hữu gì cả: chúng ta hoàn toàn trống rỗng, không ràng buộc, không vướng mắc với vật chất vật lý, một trạng thái hoàn toàn thuần khiết tinh thần. Nhưng, đó là trạng thái yêu thương và bao chứa tất cả mọi thứ.

Sự cô độc được giải thoát, tại thời điểm một người quy hàng bản thân hắn cho tình yêu và cho vũ trụ. Nhân vật trong ‘Mùa xuân sớm’ đánh đổi cơ thể của hắn cho sự hòa nhập quy hàng đó.

Từ khi nhận được Vết Thương từ chúa trời và chết, hắn trở thành tất cả: Hắn là ngọn gió sà xuống bà mẹ hắn, hắn là tiếng của không gian, hắn là dòng chảy của đại dương. Hắn vượt qua được nỗi tách biệt của hắn đối với thế giới.

Hắn đã vượt qua được sự cô độc, khi hắn trở thành Một với Vũ Trụ.




Đ. (25.10.2016)
 

AJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJARAJAR